TIỄN ANH MỘT
SÁNG CUỐI THU
Tháng 9 ngày 7 trời cuối Thu
Lá vàng xào xạc rơi về cội
Mới sáng tinh mơ điện của ai
Điên từ Ban Mê tỉnh Đắc lắc
Tin báo giật mình em mất anh
Em đã mấy đêm nằm thao thức
Mộng báo điềm buồn đã sảy ra
Tâm tư hoảng hốt lòng ngơ
ngác
Nghĩ thế nào đây trọn hiếu
tình
Căm giận lũ người vô tri
giác
Đoạn tình máu mũ của anh em
Lương tâm cắn dứt phải quyết
tâm
Phải vào tới nơi chẳng ngại
ngần
Đạp thẳng lên đầu lũ vô giác
Dâng nhang đưa tiễn em cúi
đầu
Thương anh em chẳng làm gì
được
Vì anh mình chồng của người
ta
Sinh nơi bản địa phố nhà
không quê
Lúc sinh thời ba chốn bốn
quê
Vào Nam ra Bắc đi
về buồn vui
Họ hàng cô bác khắp mọi nơi
Anh em bạn hữu một thời lừng
danh
Sông pha vào cuộc chiến
tranh
Đội quân thầm lặng tiến
nhanh Sài Gòn
Hoà bình an phận thủ thường
Du lịch Mỹ Pháp mọi vùng
Việt Nam
Giờ đây thảm cảnh đám tang
Chẳng có họ hàng chẳng có
người thân
Cỗ quan tai chỉ để trống
không
Chẳng có quả trứng bát cơm
đặt đầu
Trai cả có cũng như không
Đứa con thất hiếu vô cùng
sót đau
Đời người chẳng nghĩ trước
sau
Lúc vui trần thế khi về hầu
Diêm Vương
Chẳng thầy cúng bái mời ăn
cơm
Đau sót đoạn trường anh ăn ở
sao đây
Thương anh em đành chịu bó
tay
Hàng năm đến ngày mùng 7
tháng 9 giỗ ông
Anh có linh thiêng mời anh
về hiến hưởng
Sài gòn ngày 7 tháng 9 năm 2015
CUỘC ĐỜI ẤT DẬU ĐƯỢC SINH RA
Quê bố thôn Bào Giang, thị xã Thanh Hoá,
lấy mẹ thôn Nhân lộ xã vĩnh Thành, Vĩnh Lộc Thanh Hoá
Sinh được con trai đầu: Nguyễn Văn Đạt
Con thứ 2 là
gái Nguyễn Thị Thanh Đạm, cha đi lái xe ở Đà Nẵng lâu ngày không về, mẹ vào thăm
cha nơi đất Phật Đà Nẵng. Đầu thai con thứ 3 cha mẹ đặt tên Nguyễn Văn Tòng.
Sinh ngày …. Tháng 3 năm 1945, tại thôn Bào Giang làng Cốc thượng, Phủ Cốc, thị Xã Thanh Hoá .
Lúc Sinh ra thầy bói nói rằng, con sống thì mẹ chết, bố ở xa mẹ chạy loạn về quê
Ngoại Vĩnh Thành, ở nhà ông bà ngoại, cùng em gái là Cao Thị Tý, buôn bán tần tảo
nuôi con, đi bộ từ Vĩnh Lộc sáng hôm sau từ Thanh Hoá đi về, gánh hàng nặng trĩu trên vai, về nhà
một đầu thùng hàng, một đầu là con đi khắp làng trên xóm dưới, cuộc đời có mẹ
không có con. Sao con không đi để mẹ tôi ở lại, mẹ ơi số trời đã định, con lên
5 mẹ lâm bệnh ra đi, con 5 tuổi phải đi ở đứng quạt cho con người ta ngủ, anh đem
về nhà thấy mẹ ở trong bộ áo quan mà không biết khóc, cả cuộc đời không một lần
bế ẳm của cha, cha con chưa hề thấy mặt, xa nơi tạm chiếm anh phải cho em đi làm
con nuôi người Hà Tĩnh, làm thợ Bạc Vàng nơi phố Giáng. Bảo hiếm con nên mới nhận
làm con nuôi, vaof1 ngày mùa Thu năm 1949 một người đan ông cho gói kẹo lạc rủ
xuống thuyền buôn nước mắm của Cha đạo, ra đi từ bến Sông Mã phố Giáng Vĩnh Lộc.
Đường biển, đương sông, nơi lên bờ đó
là sông Thạch Hà – Hà Tĩnh, được ông bố nuôi thay họ đổi tên là Bùi Văn Xin .
Cuộc đời con nuối nơi đất cằn đá sỏi, cái nắng cháy da, chậm một tý bị đòn roi
chửi mắng, không vừa ý chủ, cơm ăn không bằng chó giữ nhà. Gọi là cơm nhưng toàn
khoai làng là chính, có nhiều lần trốn đòn roi lên chùa hoang vu. Đêm giá lạnh
chỉ có 1 manh áo không quần, có lúc trốn dưới đồng sâu, muỗi ruồi và đỉa cắn,
cuộc mưu sinh lao động nặng nhọc phải đi thuyền lên thị xã lấy phân người, chui
vào hố xí đội rổ phân đầy, bát cơn ăn cách đống phân tấm ván, năm 1956 bố mất,
anh lặn lội vào tìm em, cho địa chỉ quê hương nơi gia tộc. Liên quan anh tìm
em, nên bố nuôi mới cho đi học, hết lớp 4 bị quá tuổi không được học tiếp cấp
2.
Năm 1964 được anh cho tiền ra Hà Nội lên
Yên Bái thăm chị gái. được anh rể đưa đi chơi ở Lào Cai, lại trở về Hà Tĩnh đi đắp
đê Đức Thọ 3 tháng.
Tuổi 19 – 20 đi công nhân Quốc phòng làm
đường 8B tỉnh Khăm Muộn Lào, 1967 chuyển qua quân đội, huấn luyện tại Mã Thành
Ngệ an, tháng 10/1967 hành quân Nam tiến, 0 giờ ngày 1/1/1968 cuộc chiến bắt đầu,
đến 8 giờ sáng cuộc chiến không cân sức, bạn bè đồng đội hy sinh vô kể, bầu trời
Thừa Thiên - Huế trực thăng bay như ong vỡ tổ, mặt trời chen núi hoàng hôn bao
phủ, đạn trực thăng bắn xuống như dây lửa kéo dài. Cảm ơn trời đất phật thánh và
ông bà trở che phù hộ, chỉ bị thương nhẹ may sao thoát khỏi vòng vây. Lần thứ 2
bị thương gẫy tay trái, được đưa ra Bắc, trên đường ra cũng thật nguy nan 7 xe
còn 3. Năm xe còn 1, về tới Thanh Hoá trạm đón tiếp nhà thờ đạo tranh thủ về quê
lần đầu tiên bác cháu chưa hề gặp mặt. Được an dưỡng đoàn 585 Xuân Lai Thọ Xuân
– Thanh Hoá.
Chuyển ngành
về nhà máy gỗ Điện Biên Thanh Hoá, lại 1 lần Mỹ đánh bom thoát chết. Sơ tán về
cơ khí Triệu Sơn, một lần nữa B52 rãi thảm, kể ra hàng chục lần đã chết. Cảm ơn
Trời Phật đã Hộ trì đi làm chuyên viên Ban Kinh tế đối ngoại Sầm Nưa 2 năm lại
trở về nhà máy gỗ 1982 xin về nghỉ mất sức cho tới nay.
Nhà 01 ngõ 153 đường Bạch Đằng phường
Quảng Hưng TP
Nguyễn Minh Đàn